• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.ME SANG VIETWRITER.VIP TỪ NGÀY 1/4

Full Cảnh Thịnh Đế tân truyện (3 Viewers)

  • Chương 3: Bức di thư và bí mật dòng họ

Chuông đồng hồ vang lên mười hai tiếng. David vẫn nằm trên võng suy tư. Thật không ngờ mình lại là dòng dõi của một vị danh tướng. Không, phải nói là hậu duệ Hoàng tộc mới phải. Nhưng bấy nhiêu vẫn chưa đủ để anh cảm thấy hưng phấn. Điều làm anh cảm thấy lâng lâng lại lại là việc khác. Dòng máu Hoàng tộc mình đang mang trong người lại đến từ một vương triều với bao nhiêu chiến công oanh liệt. Anh thả hồn tưởng tượng, mình hiện là Đức Đông Định Vương. Bên cạnh là vị anh hùng cờ đào áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Đi theo hầu phía sau là Tây Sơn Thất hổ tướng, tiếp nữa là Tây Sơn Ngũ phụng thư. Đoàn người đứng trước ba quân tướng sĩ. Đông Định Vương thay mặt anh gióng lên hồi trống lệnh giòn giã, thúc dục ba quân tiến lên, chà đạp quân Thanh xâm lược.

Đêm đã khuya, một cơn gió lạnh lùa vào, kéo David tỉnh lại từ trong tưởng tượng. Lúc này, anh cảm thấy mình hoàn toàn tỉnh táo, không hề có dấu vết của cơn buồn ngủ hành hạ. Chợt nhớ đến bức di thư, David vùng dậy. Bắt chước cha, anh mở vòi nước bên hiên nhà rửa tay, lau sạch sẽ rồi chắp tay vái lạy bức di thư. Đoạn anh bắt đầu mở phong thư. Bên trong có hai bức thư, viết theo thể chữ Hán – Nôm. Một bức có nét chữ rất mềm mại, nét mực rất mỏng. Bức còn lại chữ viết thô hơn, nhìn có vẻ rắn rỏi, bút pháp có lực, rõ ràng là do một người đàn ông viết, do Đức Đông Định Vương viết ra chăng. Vậy thì bức còn lại là do tổ mẫu viết rồi. Nghĩ vậy, David quyết định đọc bức thư của Tổ mẫu viết trước.

An Nhơn, Gia Long đệ ngũ niên,

Tử tôn yêu quý,

Người để lại thư này là Tổ mẫu của các con, Trần Thị Gái – ái chà, tên của Tổ mẫu xấu quá nhỉ. Ta sinh thời là học trò của thầy giáo Hiến – sư phụ của Tổ phụ các con. Ta từ nhỏ đã được thầy nhận nuôi. Người thương yêu ta, đối đãi như con gái mình. Chính ta bị bỏ rơi từ thưở nằm nôi nên cũng không biết cha mẹ thân sinh là ai. Bởi thế, ta xem người như đấng sinh thành.

Nhớ năm đó, ta vừa tròn mười tuổi, có ba thiếu niên họ Hồ từ An Nhơn lặn lội đến nhà thầy ta học nghệ. Nói đến đây chắc các con đã đoán được họ là ai. Cả ba người tiếp thu rất nhanh. Tuy còn niên thiếu đã thể hiện anh tư hơn người. Anh hai Hồ Nhạc uy dũng, âm trầm. Hồ Thơm khí khái, tâm tư nhạy bén. Hồ Lữ hơi kém so với hai anh, tính tình hiền hòa, có chút nhu nhược. Tuy nhiên, trong ba anh em, Hồ Lữ lại giỏi võ nhất, lại có trí thông minh không ai sánh bằng. Hồ Lữ năm đó cũng chỉ mười hai. Có lẽ vì thế mà ta cảm thấy gần gũi chàng nhất.

Năm năm trôi qua, ta từ một cô bé chưa hiểu chuyện đã biến thành cô thiếu nữ mười lăm, đã biết mơ mộng Lữ ca cũng được mười tám. Chàng cao bốn thước tám tấc, tướng mạo nho nhã, anh tú. Hiềm nỗi chàng rất mê đá gà. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Tình yêu bắt đầu nảy nở giữa hai chúng ta.

Đến một ngày, ba anh em họ đến thưa với thầy, xin cho được xuống núi dựng nên nghiệp lớn. thầy ta đồng ý. Trước khi đi, thầy ta có dặn mấy câu:

‘...Các con đổi họ cho mau,

Từ Hồ sang Nguyễn ứng câu sấm truyền

‘Thơm’ thành ra ‘Huệ’ mới yên,

Binh thư, đao kiếm, côn quyền gia công...’

Nghe lời thầy, ba anh em đổi họ. Chàng cũng theo đó mà đổi tên thành Nguyễn Văn Lữ hay nói gọn lại là Nguyễn Lữ. Trước khi đi, chàng hẹn ta đến đèo An Khê ngắm sao. Đêm hôm đó cũng chính là ngày chúng ta ước định chung thân. Chàng hẹn khi quê nhà an bình sẽ đón ta về. Buồn cười thay, vật định tình của chàng là… một con gà tên gọi Tướng Quân. Ta cũng kết cho chàng một đôi thủ sáo dùng làm tín vật.

Mấy năm sau, chàng một mình lên núi gặp ta. Chàng nói, ba anh em đã dựng cờ khởi nghĩa và hạ thành Quy Nhơn. Sự nghiệp đã có, chàng cũng tính đến chuyện yên bề gia thất nên muốn đón ta đi. Chúng ta dắt nhau đến gặp thầy, cầu người đồng ý và chúc phúc. Lạy thầy ra đi, chúng ta nhanh chóng trở về Quy Nhơn. Với trí thông minh của mình, chàng được giao trọng trách xây dựng và bảo vệ hậu cần cho toàn quân. Về với chàng, anh hai Nhạc và anh ba Thơm không hề biết mình đã có thêm một người em dâu. Số là giờ đây chàng đã theo đạo Ma – ni và được gọi là Thầy Tư Lữ. Giới luật của đạo đối với nữ giới rất ngặt nghèo. Ta thân là vợ chàng thì không được xuất hiện nơi đông người, gặp người lạ cũng phải dùng khăn che đầu và mặt. Bởi thế, chẳng có mấy ai biết đến ta.

Việc của chúng ta, nói đến thế là đủ. Ngày nay, giặc Ánh đã thống nhất giang sơn, định niên hiệu Gia Long. Sự đời truyền tụng “Lịch sử là do người chiến thắng viết”. Quả thế, bao nhiêu chiến công hiển hách, bao nhiêu điều tốt đẹp triều ta làm cho dân bị chúng phủ nhận, thư từ sách vở bị đốt sạch. Bởi vậy, ta viết tiếp đây là để cháu con hiểu rõ sự tích của tổ tiên, phòng ngày sau lại quên đi gốc gác.

… đoạn này kể lại như lời ông Mạnh kể cho David…

Năm Cảnh Thịnh đệ thất niên, giặc Ánh hạ thành Quy Nhơn. Lão bộc già Hồ Phúc khuyên ta trước chạy trốn khỏi thành, mang theo ấu tử Phi Long, phần lão, lão chạy theo hướng khác. Tội nghiệp lão. Quân của Võ Tánh tràn vào Quy Nhơn, có nhiều người nhận ra lão là người đã từng theo hầu Vương gia nên bắt đầu đuổi giết. Ta may mắn trốn ra khỏi thành, tìm đến đất An Nhơn. Bốn năm sau, giặc Ánh thống nhất đất nước, Hoàng tộc và tất cả nghĩa sĩ trung trinh bị tàn sát. May sao, nhờ trời và có lẽ được anh linh Vương gia chiếu cố, mẹ con ta an toàn. Để bảo toàn huyết mạch của Vương gia, ta quyết định đổi lại tên của nhi tử thành Hồ Phi Long.

Than ôi, giang sơn rơi vào tay giặc Ánh. Khắp nơi, người người ngã xuống. Mỗi tấc đất đều thấm đẫm máu tươi. Lòng ta lại đau như cắt. Nay ta để lại cho con cháu chân dung của Vương gia cùng với gia huy của dòng họ. Vật này thực tế được gắn trên thủ sáo ta tặng chàng năm xưa. Ta không biết nó làm từ đâu. Nhưng chàng đã từng nói với ta, khi nó quay về với thủ sáo, đất trời sẽ thay đổi. Thế mà, than ôi! Gia huy còn đây mà thủ sáo đã thất lạc.

Vậy nay ta truyền cho con cháu. Đời đời phải nhớ đến gốc gác của mình. Mỗi thế hệ tử tôn phải tìm mọi cách để thu hồi lại thủ sáo. Để cho lần nữa thủ sáo và gia huy quy nhất. Để đất trời thay đổi, định càn khôn. Để đánh tan giặc Ánh, thu giang sơn về một mối.

Tổ mẫu Trần thị lưu thư.

Đọc hết thư, David bất giác mỉm cười. Anh tự nhủ, điều này có thể chăng. Một cái gia huy và một đôi găng tay thì làm được gì? Khỏi phải nói đến đất trời thay đổi, định càn khôn. Không lẽ gia huy và thủ sáo kết hợp sẽ có thể làm ra phép thuật? Rõ ràng là Tổ mẫu quá mê tín rồi. Nếu đúng thế thì ngày xưa Tổ phụ chẳng phải là biết làm phép sao? Vậy sao Người còn phải chết?

Đặt bức di thư xuống, David cầm bức thư thứ hai lên.

Quy Nhơn thành, Thái Đức đệ thập niên (1787)

Phu nhân yêu quý, cô gà mái mơ đáng yêu của ta,…

David bỗng cười sặc sụa. Tổ phụ quả là người mê gà đến chết. Lại hài hước nữa. Ai lại gọi vợ mình là một con gà, vậy Ngài chả là một con gà trống sao.

Ta có lẽ sắp không xong rồi. Ta viết ra đây mấy lời nhắn nhủ nàng. Ta không giỏi văn chương, nàng cũng hiểu. Thế nên nàng đừng cười khi đọc lên lại chẳng thấy hay ho gì nhé.

Nàng có nhớ lần chúng ta thề ước chung thân không? Chúng ta cùng ngắm sao băng ở đèo An Khê. Hôm ấy, khi ngôi sao băng bay qua, ta nhìn thấy nơi xa xa lóe lên ánh chớp và lửa bốc lên. Dĩ nhiên đó chỉ là đốm lửa nhỏ thôi, không ai chú ý. Sáng hôm sau, ta lần đến nơi phát ra ánh chớp. Nàng đoán xem ta nhìn thấy thứ gì. Một tảng đá kỳ lạ. Đứng cách xa tảng đá chừng một trượng (khoảng 4m), thanh bội kiếm hay đeo bên mình bỗng rung lên. Tiến lại gần hơn, cuối cùng thanh kiếm cũng bay ra và dính chặt vào tảng đá. Phải khó khăn lắm ta mới rút được thanh kiếm ra, buộc chặt bên người. Ta bỗng nghĩ ra một ý: Đem về đập nhỏ ra, đính mấy viên đá nhỏ lên thủ sáo định tình của chúng ta. Lúc ra trận, chỉ cần đưa tay ra vũ khí của giặc sẽ tự nhiên rời tay chúng, thế là ta tha hồ mà chém giết. Ha… ha… Nàng thấy ta thông minh không.

Oh my god!!! Tổ phụ điên mất rồi à? Ngài làm như thế khác nào hút vũ khí đối phương bay về phía mình? Không khéo khi Ngài giơ tay lên cũng chính là lúc Ngài biến thành con nhím mất thôi. Mà tảng đá này chắc là một khối nam châm to đây.

Nghĩ đến đây, ta khệ nệ ôm tảng đá quay về. Ta sai người đục tảng đá. Ta đem năm viên đá kích thước từ lớn đến nhỏ đính lên thủ sáo bên tay phải. Ta lại lấy một miếng to hơn, đẽo thành hình tròn và khắc lên đó gia huy của chúng ta – Lão Kim Kê. Sau đó, ta đính gia huy này lên mu thủ sáo tay phải theo thế chúng tinh ủng nguyệt. Phần đá còn lại cùng mấy mảnh vụn, ta đem cất, sau này có việc dùng.

Lạy Thánh Ala! Lúc này lại có vấn đề. Khi đem thủ sáo ra thử, ta sợ bay mất hồn vía khi thấy gươm giáo xung quanh bay lại – hi… hi… bây giờ Ngài mới phát hiện ra sao Tổ phụ. Ta vội vàng gỡ tấm gia huy ra, lực hút bỗng nhiên yếu hơn. À, có một sự lạ nữa, ta thấy từ trên trời bỗng chốc xuất hiện một cơn lốc nhỏ hướng tới thủ sáo. Khi gỡ tấm gia huy ra thì không còn thấy nữa. Vả lại, lúc này thủ sáo dùng được rồi. Ta sai hai tên thủ binh tiến lại, tay cầm giáo. Ta đưa tay lên, hai ngọn giáo rung rung, thế nhưng chúng bị giữ lại. Hai tên thủ binh cảm thấy vẫn cần được giáo nhưng xem ra lóng ngóng lắm và có điều khó khăn. Ha… ha… đại công cáo thành. Vậy là ta có cách để giết địch dễ dàng rồi.

Hôm trước, ta có gặp giáo hữu Mộ Tôn (Mosul). Anh ta kể một câu chuyện ly kỳ. Số là nửa năm trước anh mới trở về từ một nơi gọi là Tam giác Bẹc gì đó – chắc là tam giác quỷ Bermuda, David nghĩ – cùng với thương đội trên biển. Thương đội anh gồm năm chiếc thuyền. Khi tiến về vùng biển này, họ bỗng thấy một cơn lốc. Ba chiếc thuyền bị cuốn vào, thế rồi biến mất tăm, con lốc cũng tan đi. Anh ta nói chúng như là bị Thánh Ala lấy đi một cách kỳ bí vậy.

Ta bỗng nảy ra một ý. Không phải hôm trước khi thử đính những viên đá lên thủ sáo thì xuất hiện một cơn lốc sao? Mà khi đó, phải có sáu viên đá mới xuất hiện cơn lốc. Bằng chứng là khi lấy ra viên lớn nhất thì cơn lốc kia biến mất. Ta bỗng nghỉ ra một ý kiến. Nếu mình dùng mấy mẫu đá vụn xếp thành hình lục lăng thì biết đâu nó lại làm xuất hiện cơn lốc, kẻ thù chả phải là biến mất sao. Nghĩ là làm. Ta sắp sáu viên đá ra sân. Ai mà ngờ, chúng chỉ bị hút dính lại với nhau. Ta lại thử cố định chúng trên đất… Không có gì xảy ra, ta lại nghĩ, chẳng phải sáu viên đá trên thủ sáo có kích cỡ từ nhỏ đến lớn sao. Ta lại sắp những mẫu đá vụn theo thứ tự từ nhỏ đến lớn. Quả nhiên một cơn lốc xuất hiện. Đá bay, cát nhảy khắp nơi. Rồi cơn lốc biến mất. Ta dáo dác nhìn xung quanh xem thử có thay đổi gì không. Ôi trời ơi, con Nhị tướng quân của ta biến mất rồi, con gà của ta ấy mà. Ta hí hửng đem việc này thưa lại cho anh Ba. Kết quả, ta bị một trận mắn té tát. Anh ta nói: “Cứ cho là vậy đi. Thế chú quên mất nếu xảy ra việc này, chẳng những giặc biến mất mà binh sĩ của ta cũng phải biến mất sao?”

Từ đó đến nay cũng đã mấy năm rồi. Ta cũng quên mất việc đó. Cách nay mấy hôm, ta thấy một việc hết sức kỳ lạ. Ta không tin vào mắt mình nữa. Nàng biết ta thấy gì không? Con Nhị Tướng Quân. Thề có Thánh Ala, ta quả thấy con Nhị Tướng Quân vốn biến mất năm xưa. Ta chạy vội đến ôm nó. Kiểm tra nơi cựa bên phải, ta thấy quả là có khắc tên nó. Ta hay làm điều này với mấy con gà của mình nên biết chắc. Như vậy là cơn lốc kia không làm người ta biến mất, mà nó làm người ta vượt qua thời gian. Ta cố nhớ lại. Ngày trước ta sắp xếp mấy viên đá theo thứ tự ngược với thứ tự trên thủ sáo. Con gà biến mất và nay lại xuất hiện. Ta cũng nhớ lại, cơn lốc xuất hiện khi ta đính đá vào thủ sáo lại xoay ngược chiều. Như vậy không phải là nếu cơn lốc quay ngược sẽ đem người ta quay về quá khứ hay sao?

Ta cảm thấy hết sức vui mừng. Thế mà hỡi ôi, những mẫu đá ngày xưa nay mất rồi. Đôi thủ sáo ngày xưa cũng mất. Ta không thể nào thực nghiệm nữa. Việc mất đi thủ sáo cũng báo hiệu cho ta biết ngày về với Thánh Ala cũng không còn xa nữa. Thôi thì nàng hãy ghi nhớ. Sau này, nàng và hậu nhân cố gắng tìm về đôi thủ sáo đó. Biết đâu hậu nhân có thể trở về quá khứ, gặp được ta và thay đổi được mọi điều.

Nhớ lấy, cô gà mái mơ của ta.

Thư kết thúc ở đây. David bất giác chìm vào suy tưởng. Phản khoa học. Tất cả đều là phản khoa học. Có lẽ khi Tổ phụ sắp chết lại trông gà hóa cuốc. Hoặc cơn lốc kia là lúc Ngài không còn tỉnh táo mà hình dung ra chăng? Hoặc là Ngài bị chơi khăm? Có thể lắm chứ. Tổ mẫu lại không biết, lại nghĩ việc này là thật. Lại mê tín nữa, nghĩ rằng điều này có thể xảy ra. Con cháu có thể quay về quá khứ, sửa đổi lại dòng chảy lịch sử.

David suy nghĩ mông lung. Có lẽ tất cả chỉ là sự hiểu nhầm và mê tín thôi. Không thể xảy ra việc đó thật. Dù con cháu có tìm ra đôi thủ sáo cũng chẳng có gì xảy ra. Thế nhưng, phận là con cháu, nếu có thời gian và điều kiện, mình cũng nên tìm kiếm. Xem như để thỏa chí nguyện cuối cùng của Tổ tiên vậy. Nghĩ đến đó, anh bỏ tất cả vào lại trong hòm, khóa lại. Sau đó anh đem cái hòm vào phòng cất và đi ngủ.
 
Last edited:

Bình luận facebook

Bạn đã đọc chưa

Linh Cảnh Hành Giả
  • Hoa Tiến Tửu
Linh Cảnh Hành Giả
  • Hoa Tiến Tửu

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom