• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.ME SANG VIETWRITER.INFO TỪ NGÀY 1/4

Full Nhà Giả Kim (1 Viewer)

Advertisement
Advertisement
  • Nhà Giả Kim - Chương 49 - 50 - 51 - 52 - 53 (Hết)

49


Ngày hôm ấy ngọn gió Samum thổi dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đời sau người Arập sẽ còn kể về huyền thoại một chàng trai đã không khiếp nhược trước viên chiến tướng sa mạc và đã hoá thành gió, phá hầu như tan hoang cả một doanh trại. Khi lặng gió mọi người nhìn về phía cậu ngồi, nhưng cậu không còn ở chỗ cũ nữa mà đang đứng cạnh môt người lính canh bị cát vùi lấp, tuốt phía bên kia doanh trại. Mọi người khiếp đảm trước trò quỷ thuật này. Nhưng vẫn có hai người cười, đó là nhà luyện kim đan vì ông đã tìm ra được một học trò xuất sắc và viên chỉ huy, vì hắn đã được chứng kiến quyền năng tuyệt vời của Thượng Đế. Hôm sau, viên chỉ huy từ giã nhà luyện kim đan và cậu rồi cho một đoàn lính tháp tùng hai người tới bất kì nơi nào họ muốn.


50


Sau khi đã đi suốt ngày, chiếu tối họ tới được một tu viện Côptic. Nhà luyện kim đan bảo đoàn tháp tùng quay về rồi xuống ngựa.


“Từ đây cậu có thể tự mình đi tiếp được rồi đấy”, ông nói. “Chỉ cần ba tiếng nữa là tới Kim Tự Tháp”.


“Cám ơn ông đã dạy cháu ngôn ngữ vũ trụ”, cậu đáp.


“Ta chỉ gợi cho cậu nhớ lại những gì cậu đã biết từ trước thôi”. Nhà luyện kim đan gõ cổng tu viện.


Một tu sĩ mặc toàn đen ra mở cửa. Họ nói với nhau mấy câu bằng tiếng Côptic rồi nhà luyện kim đan bảo cậu vào.


“Ta vừa mới yêu cầu tu sĩ nọ cho phép sử dụng cái bếp một lúc”, ông nói.


Họ đi vào bếp. Nhà luyện kim đan nhóm lửa còn tu sĩ nọ lo mang chì đến để nhà luyện kim đan nấy chảy trong một thùng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà luyện kim đan móc túi ra quả trứng lạ lùng bằng thủy tinh màu vàng. Ông cạo một chút, mảnh như sợi tóc, lấy sáp bọc lại rồi bỏ vào thùng. Chất lỏng biến thành đỏ như máu. Rồi ông bưng thùng khỏi bếp, để nguội. Trong khi chờ đợi ông trò chuyện với người tu sĩ về cuộc xung đột giữa các bộ lạc.


“Sẽ còn kéo dài lâu”, ông nói.


Người tu sĩ tỏ vẻ bực dọc. Từ lâu nay các đoàn lữ hành đã phải nằm ở Gizeh chờ cuộc xung đột kết thúc.


“Nhưng rồi đâu cũng sẽ vào đấy, như ý Thượng Đế muốn cả thôi”, tu sĩ nói.


“Đúng thế”, nhà luyện kim đan đáp.


Khi thùng nguội, người tu sĩ và cậu nhìn vào mà kinh ngạc. Chì đã khô lại dưới đáy thùng hình tròn, song không phải là chì nữa mà là vàng.


“Một ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như vậy chứ?” Cậu hỏi


“Đó là vận mệnh của ta chứ không phải của cậu”, nhà luyện kim đan đáp. “Ta làm chỉ để cho cậu thấy rằng có thể làm được”.


Rồi ông chia chỗ vàng đó làm bốn phần.


“Để cám ơn thầy”, ông nói và đưa tu sĩ một phần.


“Thế là quá nhiều so với những gì tôi đã làm”, tu sĩ nói.


“Thầy chớ nói thế nữa, kẻo Đời nghe thấy thì lần tới thầy sẽ được ít hơn đấy”.


Rồi ông quay sang cậu.


“Phần này để đền cậu số tiền đã trả cho viên tư lệnh”.


Cậu muốn nói rằng như thế là quá nhiều so với số tiền nọ song lại thôi, vì vừa được nghe những gì nhà luyện kim đan nói với người tu sĩ.


“Phần này tôi giữ”, ông nói và cất đi. “Vì tôi còn phải vượt sa mạc và vùng có chiến sự để về nhà”.


Phần thứ tư ông đưa cho tu sĩ “Phần này để phòng khi cậu nhỏ đây cần đến”.


“Nhưng mà cháu sắp tìm thấy kho báu rồi còn gì”, cậu đáp


“Ta tin rằng cậu sẽ tìm thấy”, nhà luyện kim đan nói


“Vậy phần cháu thêm làm gì nữa?”


“Vì cậu đã hai lần mất sạch: một lần bị gã lưu manh bịp, một lần trả thù cho viên chỉ huy nọ. Ta là một lão già Arập mê tín, tin vào châm ngôn nước mình. Châm ngôn đó như thế này: “Những gì đã xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì đã xảy ra hai lần thì nhất định sẽ thêm lần thứ ba”.


Rồi họ lại lên ngựa.


51


“Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện về giấc mơ”, nhà luyện kim đan nói.


Cậu bèn cho ngựa chạy sát lại gần.


“Ở La Mã cổ đại, vào thời hoàng đế Tiberius, có một ông già kia có hai người con trai. Một người con đi lính và phải đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là thi sĩ và cả La Mã yêu thích những bài thơ tuyệt vời của anh ta. Một đêm kia ông bố nằm mộng thấy thiên thần hiện đến bảo rằng những câu nói của một trong hai người con ông được cả thế giới biết và được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cha thức giấc, thầm cảm tạ Thượng Đế và khóc vì sung sướng bởi cuộc đời quá hào phóng đã cho ông biết những điều mà mọi người cha đều tự hào. Không lâu sau đó ông chết vì muốn cứu một đứa trả khỏi bị xe ngựa cán. Vì ông sống ngay thẳng, đàng hoàng nên được lên ngay thiên đường. Ở đây ông gặp thiên thần báo mộng cho ông.


“Ông là một người tốt”, thiên thần nói. “Ông sống thương yêu người, ông chết vì làm việc phải. Do đó ta sẽ thỏa mãn bất cứ điều gì ông ước muốn”.


“Cuộc đời cũng đã rất ưu đãi tôi”, ông già đáp. “Ngày nọ, ngài đến với tôi trong giấc mơ thì tôi thấy mọi công lao của mình đã được đền bù vì thơ của con tôi sẽ còn được truyền tụng hàng trăm năm sau nữa. Cá nhân tôi không mong muốn gì cả, nhưng người cha nào chẳng tự hào về đứa con mình đã nuôi dạy. Thành ra tôi muốn rằng, trong một tương lai xa, được nghe những câu nói của con tôi”.


Thiên thần bèn vuốt vai ông và hai người bước vào tương lai xa. Cả nghìn người đứng quanh họ ở một quãng trường rộng lớn, nói với nhau bằng một thứ tiếng lạ.


Ông già khóc vì sung sướng “Tôi biết mà! Thơ của con tôi hay và trở thành bất tử mà”, ông xúc động nói với thiên thần.


“Tôi rất muốn biết người ta đọc bài thơ nào của nó ở chốn này”.


Thiên thần âu yếm nắm tay ông già rồi hai người cùng ngồi xuống một trong những ghế dài trên quãng trường.


“Thơ của con trai ông rất được yêu chuộng ở La Mã xưa”, thiên thần đáp. “Nhưng sau triều đại của Tiberius thì thơ của con ông cũng bị rơi vào lãng quên. Những lời mà người ta đang nói đây là của anh con trai đi lính cơ”.


Ông già sửng sốt nhìn thiên thần.


“Anh con trai đó phục vụ ở một nơi xa và lên đến chức tư lệnh. Anh ta cũng là một người tốt và chính trực. Một ngày nọ người hầu của anh ốm nằm chờ chết. Người con ông nghe nói có một tu sĩ Do Thái chữa được bệnh tật nên đi hết ngày này sang ngày khác để tìm tu sĩ đó. Trên đường đi anh được biết người mình tìm đó là con của Thượng Đế. Anh gặp những người đã được tu sĩ nọ chữa lành bệnh và họ dạy anh những điều tu sĩ kia đã truyền dạy. Rồi, tuy là một chiến binh La Mã, anh đã cải đạo. Không lâu sau đó anh gặp nhà tu sĩ. Anh kể ông nghe về bệnh tình của người hầu. Nhà tu sĩ tỏ ý sẵn sàng đi đến nhà anh. Nhưng con trai ông là một người một đạo nên khi nhìn vào mặt nhà tu sĩ anh biết chính đó là con Thượng Đế. Và đây là những lời con trai ông lúc ấy đã nói với tu sĩ và sẽ đời đời được truyền tụng:


“Lạy Chúa, con không xứng đáng để được đón Người vào nhà. Xin Chúa hãy phán truyền cho một tiếng thì kẻ đầy tớ của con sẽ khỏi bệnh ngay.”


“Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng đều có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đó thôi”, nhà luyện kim đan nói rồi thúc ngựa đi.


Cậu mỉm cười. Làm sao cậu ngờ được rằng cuộc đời một kẻ chăn cừu lại có thể được xem là quan trọng nhường ấy.


“Vĩnh biệt!” Nhà luyện kim đan nói


“Vĩnh biệt!” Cậu đáp


52


Cậu đi suốt hai tiếng rưỡi trên sa mạc, cố lắng nghe trái tim mình, vì nó sẽ cho cậu biết chính xác kho tàng chôn giấu chỗ nào.


“Kho tàng của cậu ở đâu thì trái tim cậu cũng ở đó”, nhà luyện kim đan đã bảo cậu thế.


Nhưng tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể về một gã chăn cừu đã rời bỏ đàn cừu của mình để theo một giấc mộng mà gã đã mơ thấy hai lần. Nó nói về vận mệnh và về những người cũng đã từng lên đường đi tìm những vùng đất xa xôi và đàn bà đẹp, đương đầu với những người đương thời cùng những thế giới quan và định kiến của họ. Suốt dọc đường nó kể về những chuyến viễn du, những khám phá lớn, những sách vở và những biến chuyển lớn lao. Chỉ vào lúc cậu định leo lên một đồi cát, đúng ngay giây phút đó, không hơn không kém một giây, tim cậu mới thì thào: “Hãy ghi nhớ nơi mà cậu sẽ khóc. Tôi cũng sẽ có mặt ở đó và đó cũng là nơi chôn giấu kho báu của cậu đấy”.


Cậu từ từ leo lên đồi cát. Trăng lại tròn vành vạnh giữa bầu trời đầy sao. Cậu đã rời ốc đảo được đúng một tháng. Đồi cát chỗ sáng chỗ tối dưới ánh trăng trông như mặt biển gợn sóng làm cậu nhớ lại cái lần mình buông cương để ngựa đi tìm dấu hiệu mà nhà luyện kim đan đòi hỏi. Ánh trăng soi trên sa mạc im ắng và soi cả những chuyến viễn du của những người đi tìm kho báu.


Lát sau, khi cậu leo lên được đỉnh đồi cát thì tim cậu rộn lên mừng rỡ. Kim Tự Tháp Ai Cập nằm kia, đồ sộ và hùng vĩ trên mặt sa mạc loáng ánh trăng tròn. Cậu quì xuống và khóc vì ngợp trong hạnh phúc. Cậu tạ ơn Thượng Đế đã khiến cậu tin vào vận mệnh mình cũng như đã khiến cậu gặp được vị vua già, chủ cửa hàng pha lê, anh chàng người Anh và nhà luyện kim đan. Nhất là đã khiến cậu gặp được cô gái sa mạc và cô đã cho cậu biết rằng tình yêu không bao giờ cản trở người trai theo đuổi vận mệnh mình. Các Kim Tự Tháp hùng vĩ có từ hàng nghìn năm trước như nhìn xuống cậu. Nếu muốn cậu có thể quay về ốc đảo ngay bây giờ, lấy Fatima và sống cuộc đời của người chăn cừu bình thường. Ngay cả nhà luyện kim đan cũng sống trong sa mạc, dù ông biết thứ ngôn ngữ vũ trụ và biến được chì thành vàng. Cậu chẳng cần phải chứng tỏ với một ai kiến thức và tài sản của mình. Trên bước đường thực hiện vận mệnh mình cậu đã học được mọi điều cần thiết và đã được sống như cậu hằng mơ tưởng. Bây giờ thì cậu đã tới được nơi chôn giấu kho báu rồi. Nhưng một việc chỉ được coi là hoàn tất khi nào đạt mục tiêu.


Cậu đã khóc trên đồi cát này. Nhìn xuống mặt cát cậu thấy một con bọ hung đang bới chỗ nước mắt cậu vừa rơi xuống. Trong những ngày ở sa mạc cậu học được rằng ở Ai Cập bọ hung là dấu hiệu của Thượng Đế. Thế là thêm một điềm báo nữa! Cậu bắt đầu đào, vừa đào vừa nhớ tới điều người bán hàng pha lê từng nói: ai cũng có thể xây được Kim Tự Tháp trong vườn của mình. Bây giờ thì cậu thấy có bỏ cả đời để chồng đá lên nhau cũng chẳng bao giờ thành nổi một Kim Tự Tháp được.


Cậu đào suốt đêm chỉ một chỗ đó mà chẳng tìm thấy gì. Kim Tự Tháp hàng nghìn năm kia lặng lẽ nhìn xuống cậu. Nhưng cậu không bỏ cuộc; cậu tiếp tục vừa đào vừa phải cản ngọn gió cứ lùa cát vào lại lỗ trũng. Hai tay cậu mỏi nhừ, tấy lên nhưng cậu tin vào trái tim mình. Nó đã bảo cậu phải đào chỗ những giọt nước mắt rơi xuống.


Rồi cậu chợt nghe có tiếng chân trong lúc đang moi đá. Có mấy bóng người đang lại gần. Họ quay lưng về phía ánh trăng nên cậu không thấy được mặt mũi lẫn mắt họ.


“Mày làm trò gì đấy?” Một cái bóng hỏi.


Cậu không đáp mà thấy sợ, sợ mất kho báu


“Bọn ta chạy lạc vì các bộ lạc đánh nhau, nên rất cần tiền”, một bóng khác nói. “Mày giấu gì ở đấy?”


“Tôi chẳng giấu gì cả”, cậu đáp. Nhưng một cái bóng khác túm lấy cậu, kéo ra khỏi hố. Một tên khác lục túi cậu, thấy thỏi vàng.


“Nó có vàng trong người”, gã đó kêu.


Ánh trăng rọi vào mặt gã và cậu nhìn thấy thần chết trong đôi mắt họ.


“Chắc là nó còn giấu trong cát nhiều vàng nữa”, một gã khác nói.


Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng rút cục vẫn chẳng thấy gì hết. Thế là chúng xúm lại tẩn cậu, mãi cho đến khi mặt trời ló dạng. Quần áo cậu rách bươm và cậu cảm thấy mình gần kề cái chết.


“Đằng nào mình cũng sẽ chết thì tiền còn quí báu gì nữa?”


Cậu nghĩ và nhớ lại nhà luyện kim đan đã từng nói: “Ít khi tiền cứu được người ta khỏi chết”


Thế là cậu thú thực: “Tôi tìm kho báu”, rồi với đôi môi dập nát và sưng vù cậu kể cho bọn kia rằng đã hai lần mơ thấy một kho tàng giấu gần Kim Tự Tháp này. Gã có vẻ là đầu sỏ lũ này im lặng một lúc rồi bảo đồng bọn: “Thả nó ra. Nó hết sạch rồi. Chỗ vàng này chắc là nó lấy cắp được”.


Cậu úp mặt xuống cát


“Thôi bọn mình đi”, tay đầu sỏ nói.


Rồi gã quay sang cậu: “Mày không chết được đâu. Mày sẽ còn phải sống để nhớ rằng đừng nên ngu xuẩn thế. Hai năm trước, ngay chính chỗ này, tao cũng đã nhiều lần mơ rằng tao phải đi Tây Ban Nha, tìm một ngôi nhà thờ làng đã sụp lở mà lũ chăn cừu thường đưa cừu vào đó làm chỗ trú chân. Trong phòng thay áo lễ có mọc một cây cầu, dưới rễ nó chôn giấu một kho vàng. Tao đâu có ngu để chỉ vì một giấc mơ mà vượt sa mạc”


Rồi chúng bỏ đi. Cậu lảo đảo đứng dậy, nhìn về phía Kim Tự Tháp. Tháp mỉm cười với cậu, cậu cười lại. Tim cậu tràn ngập niềm vui. Giờ thì cậu tìm thấy kho báu rồi.


53


Cậu tên là Santiago. Cậu đến ngôi nhà nhỏ hoang phế kia khi trời vừa nhá nhem tối. Cây dâu mọc trong cái phòng thay áo lễ trước kia vẫn còn đó. Qua cái mái đã sập một nửa người ta vẫn có thể thấy được sao trời. Cậu nhớ lại cách đây không lâu mình và lũ cừu đã ở đây một đêm rất yên bình – không kể giấc mộng. Bây giờ không có bầy cừu bên cậu nữa; trong tay cậu là một cái xẻng. Cậu nhìn lên trời một lúc, rồi lấy từ túi ra một chai vang, nhâm nhi. Cậu nhớ lại cái đêm nhìn trăng trong sa mạc, uống vang với nhà luyện kim đan; nhớ lại những chặng đường đã trải qua và cái phương cách lạ thường Chúa chọn để chỉ cho cậu kho tàng. Nếu không tin vào điều cậu hai lầnmơ thì cậu sẽ không bao giờ gặp bà lão Zigeuner, nhà vua già, gã bịp và những người khác trên con đường dài rong ruổi.


“Danh sách những người và việc mình đã gặp thì dài lắm. Nhưng đã có dấu hiệu chỉ mình hướng đi thì mình không thể nhầm lẫn được”, cậu tự nhủ.


Rồi cậu thiếp đi mà không hay. Khi mở mắt thì mặt trời đã lên cao. Cậu bắt đầu đào bới dưới gốc cây dâu


“Ông đúng là một lão phù thủy”, cậu thầm nghĩ. “Ông biết trước cả rồi. Thậm chí ông đã để lại cả vàng cho cháu để cháu có tiền đi đường, trở lại ngôi nhà thờ này. Người tu sĩ Côptic đã cười khi thấy cháu quay lại tu viện với quần áo rách bươm. Chẳng lẽ ông không thể miễn cho cháu những khốn khổ đó được à?”


“Không”, cậu nghe gió đáp. “Nếu ta cảnh báo cậu thì cậu sẽ chẳng bao giờ thấy được Kim Tự Tháp. Mà chúng đẹp biết bao, phải thế không?”


Đó là tiếng nhà luyện kim đan.


Cậu cười, đào tiếp. Sau nữa giờ lưỡi xẻng chạm phải vật gì cứng. Một giờ sau cậu đứng trước một cái hòm đầy tiền vàng cổ Tây Ban Nha. Có cả đá quí, mặt nạ vàng đính lông trắng, đỏ và cả những pho tượng cẩn ngọc. Đó là những thứ cướp bóc được trong thời kì xâm lược mà đất nước này đã quên từ lâu và những kẻ đi xâm lược cũng không kể lại cho con cháu họ.


Cậu moi bị lấy ra hai viên Urim và Thummim mà cậu chỉ dùng có mỗi một lần, vào một buổi sáng nọ ở bãi chợ. Đời cậu và con đường cậu trải qua đều rải đầy dấu hiệu. Cậu bỏ hai viên đá vào hòm. Chúng cũng là một phần của kho tàng vì chúng gợi cậu nhớ đến nhà vua già mà cậu hẳn sẽ không bao giờ gặp lại nữa.


“Đúng là cuộc đời rất hào phóng với người nào chịu theo đuổi vận mệnh mình”, cậu nghĩ. Rồi cậu nhớ rằng phải đến Tarifa để trả bà lão Zigeuner một phần mười kho báu.


“Sao họ tinh ranh thế nhỉ? Có lẽ vì họ đi nhiều”, cậu nghĩ.


Gió lại thổi, gió Levante từ châu Phi. Lần này gió không mang lại mùi sa mạc hay mối đe dọa xâm lược của người Mauren, mà mang đến một mùi thơm cậu rất quen, và một nụ hôn nhẹ nhàng chạm trên môi cậu. Cậu mỉm cười. Lần đầu tiên cô ấy hôn mình.


“Anh đến đây, Fatima ”, cậu nói.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom